Tên di sản : Đình Tây Giai
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 3827/QĐ - UBND
Giới thiệu
Đình được dựng theo hướng Nam, toạ lạc trên một khu đất rộng thoáng, nằm ngay trung tâm văn hoá của làng, bao quanh có cư dân sinh sống. Xung quanh đình được xây dựng bởi hệ thống tường rào bảo vệ.
Qua tư liệu văn tự và lạc khoản ghi trên cột và những hoạ tiết trang trí trên những bức ván mê, những đầu cột, đầu và đặc biệt là hệ thống chân tảng chúng ta thấy rõ ngôi đình trước kia có không gian kiến trúc rộng, phong cách kiến trúc đầu giai đoạn triều Nguyễn.
Không gian kiến trúc đình được phân bố bao gồm: vườn, ao, nhà tiền đình và hậu cung, nằm trong một khuôn viên đất bằng phẳng đã được khoanh vùng bảo vệ thuộc thửa đất số: 485; tổng diện tích 576m2.
Các cụ cao niên trong làng cho biết, trước kia đình được xây dựng theo lối kiến trúc hình chữ đinh (J), bao gồm một nhà tiền đường 5 gian hai trái, (gian giữa rộng 4m, còn lại mỗi gian rộng 3m, hai trái mỗi bên rộng 1,5m). Phía trong là hậu cung, bước vào nhà hậu cung, ở hai bên cửa ra vào người ta đặt hai tấm đá xanh, (kích thước rộng 1,2m, dài 1,5m). Hai tấm đá được đặt với tác dụng để cho những người có chức sắc trong làng ngồi chuẩn bị dâng lễ vật tế cúng.
Qua ngưỡng cửa vào nhà hậu cung người ta bố trí hai con hạc lớn đứng chầu hai bên. Từ nhà tiền đình vào hậu cung qua cửa phía đông có cửa vách ra sân đình. Ngoài ra ở phía Đông hậu cung có ngôi đình chung rộng 5 gian kết cầu kẻ chuyền, giá chiêng, chồng rường, lợp ngói mũi hài, ngôi nhà này có tác dụng sắp sửa đồ lễ mỗi khi tế cúng. Xung quanh đình được xây tường rào bao quanh, phía sau đình có ao.
Ngày nay chỉ còn lại ngôi nhà hậu cung hình chuôi nét dọc chữ đinh, bao gồm 3 gian 4 vì. Xưa kia được bịt ván nong xung quanh, ngày nay nhân dân đã xây tường gạch bao quanh. Sân có chiều rộng 15m, dài 19m. Nền được lát gạch bát cũ, sân phía tây đã bị phá làm vườn cây ăn quả.
Nền hậu cung có chiều dài 11,3m, chiều rộng 9,37m với tổng diện tích 106m2.
Mặt bằng nhà hậu cung được cấu tạo 3 gian theo chiều dọc, kết cấu kích thước từ Nam đến Bắc, Gian thứ nhất rộng: 2,7m.
Gian thứ hai rộng: 2,7m.
Gian thứ ba rộng: 3,1m.
Cấu trúc ngang thân nhà gần sáu hàng cột, hai hàng cột cái, hai hàng cột quân, hai hàng cột hiên trước, sau.
Từ mái hiên đến tim cột quân phía đông: 0,60m.
Từ tim cột hiên phía Đông đến tim cột quân phía Đông: 1,1m.
Từ tim cột quân phía đông đến tim cột cái phía đông: 1,4m.
Cột cái có chiều cao: 4,1m, đường kính cột: 0,42m.
Cột quan có chiều cao: 3,3m, đường kính cột: 0,39m
Cột hiện có chiều cao: 2,6m, đường kính cột 10,23m
Kích thước chân tảng cột cái: 0,60m x 0,60m.
Kích thước chân tảng cột quân: 0,40m x 0,40m
Kích thước chân tảng cột hiên: 0,37m x 0,37m.
Như vậy hậu cung có tổng số 24 cột gỗ đứng trên hệ thống chân tảng gồm: 8 cột cái, 8 cột quân, 8 cột hiên.
Đường kính các cột có tỉ lệ tương ứng với nhau nên hình dáng của cột cũng có quy định rõ ràng.
Như chúng ta vừa trình bày ở trên, các cột ở đây được tạo theo kiểu “thượng thu hạ thách”, các xà, câu đầu cũng có sự tương ứng với nhau, sự tương ứng giữa các xà với cột, giữa các câu đầu với cột rất hợp lý.
Kết cấu vì kèo.
Thi Theo khảo sát thực tế đình Tây Giai ngày xưa kiến trúc đình theo kiểu chữ Đinh (J). Hiện tại nhà tiền đình đã bị phá, còn lại nhà hậu cung, là một ngôi nhà 3 gian, bốn vì, kết cấu mỗi vì khác nhau.
Vì thứ nhất tính từ Nam đến Bắc gồm 6 hàng cột, kết cấu theo chiều dọc nên được chạm khắc hoa văn cầu kỳ, bộ vì là hệ thống ván mê, trên các ván mê chạm lòng hoa văn rồng, cá, cua, các con vật thuộc tứ linh.
Cột cái Đông, cái Tây là bức chạm kiểu hoành phi và có chạm khắc chữ: “Phụng sự tối linh từ” nền son chữ đen. Đại tự được đóng khung 4 ô nằm trong khuông hình vuông. Khoảng cách mỗi chữ được ngăn cách bởi hình hoa văn dây leo. Khung bức đại tự phần giữa là đôi rồng hóa chầu vào chữ thọ. Khung trong hình vuông được khắc kiểu chữ triện, hoạ tiết vân mây, được ẩn xung quanh đôi rồng mô tả theo kiểu hồi văn.
Dưới bức đại tự từ dạ sàng hạ đổ lên được chạm khắc bức phù điêu long nghê. Nghê đầu sư tử, bờm tua dài, mô phỏng hình đao lửa, bờm chạy dọc sống lưng, đuôi cúp, bốn chân được mô tả bằng thủ pháp chạm chìm, bắp nở, trên hai bắp chân long nghê được mô tả theo kiểu xoắn ốc. Toàn bộ thân nghe được chạm khắc nổi đè lên những hoạ tiết hoa văn vân mây. Bên trái đối xứng với đầu nghê là con rồng, được trải dài theo xà hạ (đầu rồng đã bị mất một phần). Thân rộng được cấu trúc thành năm khúc, vây rồng dựng ngược hình đao lửa, được mô tả rõ nét theo hình vảy cá, chân rồng được ẩn trong những quầng mây lửa từ trên khung bức đại tự lên thượng lương. Phía trên bức hoành phi là bức ván mê, nóc vì chạm rồng, bên dưới hoành phi là xà lòng được chạm nổi hình rồng lượn từ Tây sang Đông, đến 1/3 xà lòng. Đầu rồng được chạm ngẩng đầu ra.
Đặc biệt ở hai cột cái, hai cột quân ở vì 1 này được chạm nổi hình con rồng chạy hết cây cột lên đến xà lòng, bên dưới các cột này được nghệ nhân khắc hình con lân khung giữa chạm hình rồng mập mạp, móng sắc, mắt to trán dô trông dữ tợn. Khung trên chạm hình con phượng. Vì hai được kết cấu theo kiểu kẻ chuyền con ngang, ở nóc là chồng rường, giá chiêng, đầu các con rường cũng được khắc hình hoa cúc cách điệu chữ thọ, trục đúng chạm chữ thọ.
Vì ba có kết cấu kiến trúc giá chiêng, chồng rường, kẻ hiên là từ xà lòng đến thượng lương được kết cấu kiểu con so chồng rường, giá chiêng. Trên cùng là các rường chồng lên nhau, nhưng tỉ lệ ngắn và thu hẹp lại dần theo kết cấu mái, nó được đỡ bằng các đấu trụ vững vàng. Đấu con rường thứ nhất trên nóc được ăn mộng vào đầu trụ đứng, để nối hai trụ này là một con rường nằm ngang ăn mộng vào đầu trụ đứng, hoành tải của cả mái. Đặc biệt trên con rường của vì kèo này được nghệ nhân trang trí hình hoa cúc cách điệu, khắc chữ thọ. Tất cả mảng chạm khắc gỗ trông chắc chắn, khỏe mạnh, đỡ guốc thượng lương, bên dưới xà lòng còn dấu vết của võng y môn.
Vì bốn có kết cấu kiến trúc kẻ chuyền, chồng rường, giá chiêng. Từ cột quân ra một cái có con ngang giá chiêng, ván mê đỡ hoành tải. Theo kết cấu dọc hàng cột quân được tạo bởi hai xà hạ và xà thế hoành, giữa xà hạ và xà thế hoành được đặt tấm ván gió.
Ở hàng cột cái theo kết cấu dọc, được tạo bốn lớp xà: xà hạ, xà giữa và xà thượng, xà thế hoành. Giữa xà thượng và xà giữa được tạo bởi lớp ván gió tạo nên thế vững chắc cho khung nhà.
Nét đặc biệt ở ngôi nhà hậu cung là mảng chạm khắc ở vì 1, các bức ván mê được chạm thể hiện những mảng điêu khắc độc đáo mang đề tài mỹ thuật theo phong cách dân gian, nét chạm được thể hiện thanh thoát, hình chạm chắc khỏe thể hiện ở thân rồng, vẩy rồng, đuôi rồng, móng bám chắc chắn và các con vật như sóc, chim, cá, lá sen úp ngược cá lượn tung tăng trong hồ nước, miệng rồng ngậm hút nước. Tất cả mảng điêu khắc này được đặt nơi thoáng mát, cách bố cục của nghệ nhân thời bấy giờ mang ý thức hệ xã hội tiến bộ. Quyền lực cũng nằm trong quỹ đạo của quy luật tự nhiên.
Toàn bộ cầu phong li tô, hoành tải được làm bằng gỗ, xà thượng, xà hạ trên dưới được làm bằng gỗ nhưng có hình dáng vuông vắn chắc khỏe, có khả năng chịu lực. Toàn bộ khung gỗ của nhà hậu cung đều được làm bằng gỗ tứ thiết, mái được lợp ngói mũi hài, nhiều loại, chứng tỏ rằng di tích đã được nhiều lần tu sửa.
Nghệ thuật trang trí ở đây là những mảng chạm ở kẻ hiên, hệ thống ván mê, xà lòng, hai cột cái, hai cột quân ở vì một được trang trí mang nhiều đề tài phù hợp với ý thức dân gian như chạm rồng, phượng, lân, sóc, rùa, cá chép, hình hoa sen, lá sen úp ngược...Thể hiện cuộc sống dân gian sinh động của xã hội và quy luật tự nhiên phát triển.
Các hiện vật có giá trị trong di tích:
Cho đến ngày nay di tích còn lưu giữ được một số hiện vật có giá trị như sau:
Long ngai gỗ cổ 3 cái.
Thánh vị cổ 3 cái.
Lư hương đồng (cổ): 1 bộ
Cây đèn gỗ cổ 4 cái.
Đài nước gỗ cũ 2 cái.
Đài rượu cổ 2 cái.
Mâm bồng gỗ cổ 1 cái.
Bát hương gốm 8 cái.
Lục bình gốm 2 cái.
Lục bình gỗ 1 cái.
Thùng đá cổ 2 cái.
Khay mịch gỗ 1 cái
Bệ khám thờ gỗ cổ.